Quyền của bị hại theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015
LSVNO – Nên bỏ nội dung quy định tại điểm a khoản 4 Điều 62 BLTTHS năm 2015 “trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải;” vì hoàn toàn không phù hợp và thiếu tính khả thi trên thực tế.
Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 có quy định về bị hại như sau:
“1. Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.
Bị hại hoặc người đại diện của họ có quyền:
a) Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
b) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
c) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
d) Đề nghị giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật;
đ) Được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án;
e) Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
g) Đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường;
h) Tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa;
i) Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;
k) Tham gia các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này;
l) Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa;
m) Kháng cáo bản án, quyết định của tòa án;
n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
o) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc người đại diện của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa.
Bị hại có nghĩa vụ:
a) Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải;
b) Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Trường hợp bị hại chết, mất tích, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người đại diện thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị hại quy định tại Điều này.
Cơ quan, tổ chức là bị hại có sự chia, tách, sáp nhập, hợp nhất thì người đại diện theo pháp luật hoặc tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó có những quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều này”.
Nghiên cứu quy định này, tác giả có một số ý kiến muốn trao đổi như sau:
Thứ nhất, về tên gọi của chủ thể trong thành phần tham gia tố tụng vụ án hình sự có thay đổi so với trước đây, nếu theo quy định tại Điều 51 BLTTHS năm 2003 là “người bị hại”, thì nay theo quy định tại Điều 62 BLTTHS năm 2015 là “bị hại”. Đồng thời, nội hàm của định nghĩa về “bị hại” được nhà làm luật mô tả theo hướng mở rộng hơn bao gồm cả cơ quan, tổ chức nhưng chặt chẽ, rõ ràng và cụ thể hơn. Theo đó, điều kiện cần và đủ để cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền xác định tư cách tham gia tố tụng của họ trong từng vụ án cụ thể là “bị hại” phải thỏa mãn:
i) Nếu là cá nhân thì người đó trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra;
ii) Nếu là cơ quan, tổ chức thì cơ quan hoặc tổ chức đó gián tiếp hoặc trực tiếp bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.
Thứ hai, so với khoản 2 Điều 51 BLTTHS năm 2003, khoản 2 Điều 62 BLTTHS năm 2015 đã quy định bổ sung cho bị hại và người đại diện của họ các quyền:
– Được cơ quan tố tụng thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ của họ;
– Đưa ra chứng cứ;
-Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
– Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người định giá, người dịch thuật;
– Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người tham gia phiên tòa và một số quyền khác.
Qua nghiên cứu thấy rằng, một số quyền được quy định bổ sung như vừa liệt kê cũng cần được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản hướng dẫn, giải thích rõ hơn, cụ thể hơn nhằm bảo đảm những quyền này được thực thi có hiệu quả trên thực tế:
Một là, quyền được cơ quan tố tụng thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ (điểm a khoản 2).
Theo Điều 71 BLTTHS năm 2015, trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng được quy định như sau:
“1. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật này.
Trường hợp người bị buộc tội, người bị hại thuộc diện được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải thích cho họ quyền được trợ giúp pháp lý; nếu họ đề nghị được trợ giúp pháp lý thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thông báo cho trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước.
Việc thông báo, giải thích phải ghi vào biên bản”.
Vấn đề đặt ra là cơ quan tiến hành tố tụng nào (cơ quan cảnh sát điều tra, viện kiểm sát, tòa án) thực hiện việc thông báo như quy định tại khoản 1 Điều 71? Mỗi giai đoạn tố tụng (giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố, giai đoạn xét xử) bị hại hoặc đại diện của họ đều được cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý, giải quyết vụ án thông báo, giải thích hay chỉ được thông báo, giải thích một lần ở giai đoạn điều tra? Cơ quan tố tụng chủ động thông báo hay chỉ thực hiện trách nhiệm thông báo, giải thích khi có yêu cầu cần nhận sự trợ giúp pháp lý của bị hại hoặc đại diện của họ?
Một vấn đề khác cũng đang có những luồng ý kiến khác nhau về trách nhiệm thông báo, giải thích của cơ quan tiến hành tố tụng đối với người tàn tật (khuyết tật) là đối tượng được hưởng quyền trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật, đó là: tại khoản 3 Điều 10 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 có quy định người thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý là người tàn tật và trẻ em không có nơi nương tựa.
Tại khoản 4 Điều 2 Nghị định 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý quy định: “Người tàn tật được trợ giúp pháp lý quy định tại khoản 3 Điều 10 Luật Trợ giúp pháp lý là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn hoặc là người bị nhiễm chất độc hoá học, bị nhiễm HIV hoặc bị các bệnh khác làm mất năng lực hành vi dân sự mà không có nơi nương tựa”.
Như vậy, nếu hiểu theo nội dung của hai văn bản quy phạm pháp luật vừa nêu, thì người tàn tật nhưng không có nơi nương tựa mới là đối tượng được hưởng quyền trợ giúp pháp lý. Do vậy, cơ quan tiến hành tố tụng chỉ phải thực hiện trách nhiệm thông báo, giải thích về quyền được trợ giúp pháp lý, khi có đủ căn cứ xác định họ là người tàn tật không có nơi nương tựa.
Tuy nhiên, nghiên cứu quyền của người khuyết tật quy định tại điểm d khoản 1 Điều 4 Luật Người khuyết tật năm 2010 cho thấy, người khuyết tật: “Được chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, học văn hóa, học nghề, việc làm, trợ giúp pháp lý, tiếp cận công trình công cộng, phương tiện giao thông, công nghệ thông tin, dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch và dịch vụ khác phù hợp với dạng tật và mức độ khuyết tật”.
Dạng tật và mức độ khuyết tật, tại Điều 3 Luật Người khuyết tật quy định dạng tật bao gồm: khuyết tật vận động; khuyết tật nghe, nói; khuyết tật nhìn; khuyết tật thần kinh, tâm thần; khuyết tật trí tuệ; khuyết tật khác. Người khuyết tật được chia theo mức độ khuyết tật sau đây: người khuyết tật đặc biệt nặng là người do khuyết tật dẫn đến không thể tự thực hiện việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày; người khuyết tật nặng là người do khuyết tật dẫn đến không thể tự thực hiện một số việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày; người khuyết tật nhẹ là người khuyết tật không thuộc trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản này.
Ngày 10/4/2012, Chính phủ ban hành Nghị định số 28/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người khuyết tật, nhưng rất tiếc không có quy định đề cập đến dạng khuyết tật nào, mức độ khuyết tật cụ thể bao nhiêu được hưởng quyền trợ giúp pháp lý theo quy định của luật. Chính vì lẽ đó, các quy định của pháp luật liên quan đến người khuyết tật trong lĩnh vực tố tụng hình sự dù rất mang tính nhân văn, nhưng vẫn chưa được các cơ quan tiến hành tố tụng thực thi một cách có hiệu quả trong thực tế. Do vậy, rất cần sự hướng dẫn kịp thời về nội dung này, nhằm bảo đảm quyền lợi của đối tượng là người khuyết tật được trợ giúp pháp lý.
Hai là, về quyền được đưa ra chứng cứ (điểm b khoản 2). Nếu bị hại hoặc đại diện hợp pháp của họ đưa ra chứng cứ vụ án trước khi vụ án được khởi tố, liệu rằng cơ quan tiến hành tố tụng có chấp nhận không, bởi theo quy định tại Điều 86 BLTTHS năm 2015: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”. Theo quy định này, trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ mà chủ thể tiến hành thu thập chứng cứ không phải cơ quan, người tiến hành tố tụng vụ án, thì khi phát hiện được chứng cứ, họ phải thực hiện những thủ tục gì để được coi là thu thập đúng quy trình, thủ tục do Bộ luật này quy định? Ví dụ, do mâu thuẫn nhau trong hợp tác làm ăn, khoảng 22 giờ 15 phút ngày 20/5/2013, Nguyễn Quốc Đ gọi điện cho Trần Hoài Tr và hẹn gặp nhau tại quán cà phê L dưới chân cầu Ông Lãnh để nói chuyện. Khi hai bên gặp nhau, Đ chủ động gọi Tr đi lên cầu để nói chuyện cho thoái mái hơn và tại đây sau một hồi cự cãi, Đ rút khẩu súng được cất giấu cạnh hộp bảo vệ công tắc điện bên lan can cầu bắn 01 phát vào người Tr rồi tẩu thoát. Sau thời gian cấp cứu điều trị 25 ngày, do vết thương quá nặng nên Tr đã tử vong. Cũng trong thời gian này, phía gia đình người bị hại sau nhiều lần thuê thợ lặn tìm kiếm và cuối cùng nhặt được khẩu súng nghi là hung khí Đ dùng để gây án. Vấn đề đặt ra, trong trường hợp này, phía gia đình người bị hại chủ động thu thập vật chứng của vụ án (khẩu súng) trước khi cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố vụ án, khởi tố bị can có được coi là đúng theo trình tự do luật định? Phía người bị hại khi tìm được khẩu súng nghi là tang vật của vụ án, không kịp thời báo cáo chính quyền địa phương hoặc cơ quan chức năng; cũng không lập biên bản ghi nhận việc phát hiện khẩu súng tại nơi tìm kiếm; không có xác nhận của người chứng kiến. Với trường hợp như thế có được coi là thu thập chứng cứ đúng theo thủ tục luật định không? Trong khi đó, việc thu thập chứng cứ tại khoản 3 Điều 88 BLTTHS năm 2015 chỉ quy định: “Những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án”.
Để tạo sự thống nhất về nhận thức và áp dụng trong thực tiễn, thiết nghĩ cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần hướng dẫn cụ thể về khía cạnh pháp lý nêu trên.
Ba là, về quyền được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án (điểm đ khoản 2). Hiểu như thế nào cho đúng với tinh thần của nhà làm luật đối với quy định này, hiện cũng có những ý kiến trái chiều nhau, cụ thể:
– Cách hiểu thứ nhất: Khi kết thúc giai đoạn điều tra, cơ quan điều tra có nghĩa vụ thông báo cho bị hại biết về kết quả điều tra, giải quyết vụ án mà cơ quan điều tra đã thực hiện trong giai đoạn này, hình thức thông báo có thể bằng văn bản, gặp trực tiếp tại cơ quan điều tra hoặc qua điện thoại; nội dung thông báo tùy từng trường hợp cụ thể, đó là: tóm tắt bản kết luận điều tra vụ án trong trường hợp đề nghị truy tố; đình chỉ điều tra; tạm đình chỉ điều tra vụ án cũng như bước tiếp theo của cơ quan tố tụng có thẩm quyền giải quyết vụ án theo trình tự luật định.
– Cách hiểu thứ hai: Ở mỗi giai đoạn tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng theo thẩm quyền đang thụ lý hồ sơ vụ án đó phải thông báo bằng văn bản cho bị hại hoặc người đại diện của họ biết kết quả điều tra, giải quyết vụ án một cách công khai, minh bạch, kịp thời. Cụ thể:
i) Nếu trong giai đoạn điều tra, tùy từng trường hợp mà họ được thông báo kết luận điều tra vụ án trong trường hợp đề nghị truy tố; kết luận điều tra trong trường hợp đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ điều tra vụ án.
ii) Nếu trong giai đoạn truy tố, viện kiểm sát phải thông báo cho họ biết về kết quả giải quyết vụ án đó, như: quyết định truy tố bị can; việc chuyển hồ sơ vụ án và bản cáo trạng đến tòa án; trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung; tạm đình chỉ vụ án; đình chỉ vụ án.
iii) Nếu đang giai đoạn xét xử, họ được tòa án thông báo với những nội dung sau: thụ lý hồ sơ vụ án; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; tạm đình chỉ vụ án; đình chỉ vụ án; quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Cách hiểu thứ hai được nhiều ý kiến ủng hộ, vì như vậy sẽ bảo đảm tốt hơn quyền của phía bị hại, bởi thực tế người bị hại trong các vụ án hình sự không được tòa án giải quyết vụ án đó gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử, nên họ không thể biết thành phần hội đồng xét xử vụ án đó gồm những ai, kể cả kiểm sát viên, thư ký tòa án, người phiên dịch, người giám định,… mà họ chỉ được biết những người này ngay tại phiên tòa xét xử vụ án đó. Chính vì vậy, họ không có đủ thời gian tìm hiểu mối quan hệ giữa bị can, bị cáo với những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cũng như tự mình thực hiện quyền đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, người định giá tài sản, người dịch thuật tại phiên tòa, khi có đủ căn cứ xác đáng theo quy định tại các Điều 49, 51, 52, 53, 54, 68, 69 và 70 BLTTHS năm 2015; đồng thời cũng để phù hợp với xu thế chung là minh bạch hóa hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng
Bốn là, tham gia các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này (điểm k khoản 2). Đây là quy định hoàn toàn mới về quyền của bị hại và người đại diện của họ so với quy định về quyền của người bị hại theo quy định tại khoản 2 Điều 51 BLTTHS năm 2003. Nhưng hiểu như thế nào cho đúng với bản chất của quy định này, hiện là vấn đề còn đang có nhiều ý kiến chưa thống nhất:
– Loại ý kiến thứ nhất: Bị hại và người đại diện hợp pháp của họ được quyền tham gia các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này, có nghĩa là từ khi vụ án chính thức được khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử, họ đều được quyền tham gia, được quyền chất vấn các hoạt động tố tụng, như được đề nghị lấy lời khai của người làm chứng khác với người làm chứng mà cơ quan điều tra xác định; được tham gia khám nghiệm hiện trường, dựng hiện trường, thực nghiệm điều tra; thu thập tài liệu chứng minh về khoản thu nhập thường xuyên cũng như thông tin liên quan đến tài sản của người bị buộc tội để đảm bảo việc bồi thường thiệt hại; yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng kê biên tài sản; phong tỏa tài khoản;…
– Loại ý kiến thứ hai: Bản chất của hoạt động tố tụng khác hoàn toàn với bản chất hoạt động tiến hành tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng theo quy định của BLTTHS năm 2015. Theo quy định này, có thể hiểu bị hại và đại diện hợp pháp của họ được quyền tham gia hoạt động tố tụng trong vụ án chỉ trong giai đoạn xét xử với ý nghĩa nhằm giúp tòa án xác định sự thật khách quan vụ án. Hơn nữa, nghiên cứu các quy định có liên quan đến bị hại và đại diện hợp pháp của họ, thì hoạt động tố tụng của họ thực chất chỉ diễn ra tại phiên tòa, còn các giai đoạn tố tụng trước đó họ tham gia với hình thức “bị động”, lệ thuộc hoàn toàn vào điều tra viên, kiểm sát viên. Với cách tiếp cận vấn đề như vậy, bị hại và người đại diện hợp pháp của họ được quyền tham gia những hoạt động tố tụng như: đề nghị triệu tập thêm người làm chứng tại phiên tòa; rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại; đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015; đề nghị hoãn phiên tòa; đề nghị giám định lại, định giá lại tài sản; giải quyết vụ án (xét xử) theo thủ tục rút gọn; xét xử kín;…
Chúng tôi cho rằng, loại ý kiến thứ hai có căn cứ để chấp nhận hơn, vì có sự phân biệt rạch ròi giữa hoạt động tiến hành tố tụng và hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, để thống nhất về nhận thức và áp dụng trong thực tiễn giải quyết án, rất cần các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hướng dẫn cụ thể, rõ ràng hơn về quy định này.
Thứ ba, nhằm tăng cường trách nhiệm của bị hại trong việc phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tố tụng trong việc phát hiện, xử lý tội phạm, khoản 4 Điều 62 BLTTHS năm 2015 quy định rõ hơn nghĩa vụ và trách nhiệm của họ phải chấp hành các quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền. Đồng thời, họ có thể bị dẫn giải trong trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc có hành vi gây khó khăn, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Từ thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 cho thấy, hầu như không có trường hợp nào người bị hại bị dẫn giải trong giai đoạn truy tố, kể cả ra tòa án phục vụ việc xét xử, lý do không phải vì thiếu cơ sở pháp lý để các cơ quan này thực hiện việc dẫn giải, mà chính vì một khi họ cố tình vắng mặt dù trước đó được viện kiểm sát, tòa án triệu tập hợp lệ, đúng theo quy định của pháp luật, mà họ vẫn không có mặt theo giấy triệu tập, điều đó có nghĩa là họ đã tự nguyện khước từ quyền lợi hợp pháp mà pháp luật dành cho họ, họ từ chối quyền được pháp luật bảo vệ lẽ công bằng, thậm chí nhiều trường hợp họ từ chối giám định thương tật, không yêu cầu bồi thường thiệt hại, có đơn xin vắng mặt trong mọi trường hợp mà cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập họ. Tóm lại, họ không muốn dính líu đến pháp luật. Như vậy, đặt ra quy định dẫn giải họ để phục vụ cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử là vô nghĩa, trong khi pháp luật tố tụng quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng và việc tìm ra sự thật khách quan vụ án không chỉ có dựa vào lời khai của người bị hại. Cũng không ít trường hợp do cách trở về địa lý, chi phí đi lại quá tốn kém, nhưng lại không được cơ quan triệu tập thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác phát sinh nên họ từ chối hoặc vắng mặt cũng là điều dễ hiểu. Hơn nữa, pháp luật còn dành cho họ quyền kháng cáo vắng mặt trong thời hạn luật định, nếu như họ cần đến sự bảo vệ của pháp luật.
Từ những phân tích vừa nêu, chúng tôi kiến nghị nên bỏ nội dung quy định tại điểm a khoản 4 Điều 62 BLTTHS năm 2015 “trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải;” vì hoàn toàn không phù hợp và thiếu tính khả thi trên thực tế.
Ths. LS Lê Văn Sua