Vụ án Giám đốc doanh nghiệp đánh bạc, chứa mại dâm tại huyện An Dương, TP. Hải Phòng: Toà án và luật sư “vênh” nhau về việc áp dụng luật
(PL&XH) – Sau phiên xử sơ thẩm vụ án Đỗ Mạnh Đàn (nguyên là Giám đốc Công ty TNHH Hải Yến) và đồng bọn về hành vi đánh bạc, chứa mại dâm xảy ra tại Khách sạn (KS) Hải Yến, huyện An Dương, TP Hải Phòng, bị cáo Đàn và gia đình đã kháng cáo khi cho rằng bị cáo đáng ra chỉ bị xử phạt hành chính theo Điều 25 Nghị định 167/2013/NĐ-CP bởi ngoài những lời khai của các nhân viên thì hồ sơ buộc tội không chặt chẽ, không đầy đủ và nhất là không có chứng cứ chứng minh bị cáo Đàn chứa mại dâm.
Buông lỏng quản lý hay chứa mại dâm?
Theo cáo trạng của VKSND TP Hải Phòng, vào lúc 21h ngày 18/9/2013, tổ công tác của PC 45 – Công an Thành phố Hải Phòng tiến hành kiểm tra khách sạn Hải Yến và bắt quả tang 7 đôi nam nữ đang mua bán dâm tại các phòng nghỉ và phòng massage của khách sạn. Đồng thời kiểm tra phát hiện tại phòng 404 có bốn đối tượng gồm Hoàng Xuân Việt, Bùi Văn Đoan, Bùi Xuân Trượng có biểu hiện tụ tập đánh bạc. Cơ quan công an đã tiến hành thu giữ tại hiện trường 2 vỏ bộ bài và 136 quân bài tú lơ khơ; đồng thời thu giữ của Trượng số tiền gần 5,8 triệu đồng đồng, thu giữ của Đoan 1,9 triệu đồng và thu giữ của Việt 2,1 triệu đồng.
Các nhân viên được Đỗ Mạnh Đàn tuyển dụng, thỏa thuận nhưng không có hợp đồng lao động. Việc chia lợi nhuận được tính như sau: Đối với các nhân viên quản lý khu vực massage nếu bán được 11 vé/ ngày thì được Đỗ Mạnh Đàn trả 120.000 đồng tiền công, nếu bán dưới 11 vé massage thì không được Đàn trả tiền, bán từ 12 vé trở lên thì được hưởng thêm 10.000 đồng/vé massage. Đối với nhân viên massage, Đỗ Mạnh Đàn không trả bất kỳ một khoản tiền nào, chỉ đảm bảo chỗ ở và làm việc hằng ngày. Nhân viên lễ tân được Đàn trả lương theo tháng từ 2,1 triệu – 2,8 triệu đồng/tháng.
Cáo trạng nhấn mạnh, KS Hải Yến có hoạt động mại dâm trong thời gian dài từ năm 2010 đến nay, mặc dù Đỗ Mạnh Đàn không trực tiếp điều hành nhân viên bán dâm nhưng Đàn đã cho phép các nhân viên sử dụng khách sạn của mình để bán dâm, Đàn chỉ đạo các nhân viên quản lý khu vực massage và nhân viên lễ tân trong việc bố trí phòng nghỉ, sắp xếp nhân viên bán dâm. Đàn không ăn chia tiền mua bán dâm nhưng quy định khi khách đến mua dâm thì nhân viên quản lý khu massage lấy phòng nghỉ khách sạn từ lễ tân, nhân viên quản lý khu massage có nhiệm vụ phải thu 1 vé massage là 120.000 đồng và tiền phòng khách sạn + tiền thêm giờ (nếu có) và nộp lại cho Đàn. Khách mua dâm dù không massage vẫn phải mua 1 vé như đã quy định. Cũng theo cáo trạng, vật chứng vụ án trong quá trình bắt giữ và khám xét tại KS Hải Yến, Công an đã thu giữ 02 đầu ghi camera; 10 camera quan sát; 150 bao cao su (có 03 bao đã qua sử dụng); 45.790.000 đồng; 06 cuốn sổ ghi chép là những tài sản, vật chứng liên quan đến việc tổ chức hoạt động mại dâm.
Theo luật sư Nguyễn Văn Xứng – Trưởng văn phòng luật sư Xã hội và Gia đình, đoàn luật sư Hải Phòng: “Việc nhân viên lễ tân giao chìa khóa phòng cho nhân viên massage là do khách hàng sau khi massage muốn nghỉ ngơi thêm nên nhờ nhân viên massage ra lấy hộ phòng. Vấn đề là các nhân viên này đã được các vị trí điều hành massage đồng ý để nhân viên vào phòng bán dâm cho khách sau đó chia nhau số tiền bán dâm nên bộ phận lễ tân và ông Đàn không biết có hoạt động bán dâm”.
“Cáo trạng cho biết, ông Đàn quy định khi khách đến mua dâm dù không massage vẫn phải mua 1 vé. Đây thực sự là một dấu hỏi lớn, bởi nếu đã khẳng định KS Hải Yến có hoạt động mại dâm trong thời gian dài, có nghĩa mọi khách hàng đều biết đây là một tụ điểm mại dâm, vậy việc gì họ phải mất tiền mua 1 vé massage?. Chỉ có một lý do duy nhất, do ông Đàn quá tin tưởng vào các vị trí điều hành massage nên đã để họ “qua mặt” khi tổ chức bán dâm ngay tại khách sạn của ông”. Thêm vào đó KS Hải Yến kinh doanh dịch vụ nhà nghỉ và massage nên phải thu tiền khách thuê phòng, cũng như sử dụng dịch vụ massage là chuyện bình thường mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải làm. Còn nếu ông Đàn chứa mại dâm, thì chắc chắn phải có sổ sách kèm theo để ghi rõ “lịch bán dâm” của từng nhân viên?”.
Các bị cáo tại phiên xử sơ thẩm.
Nhiều tình tiết cần được làm rõ
Ngày 14 và 15/10/2014, Tòa án nhân dân TP. Hải Phòng đã xét xử sơ thẩm vụ án hình sự xét xử bị cáo Đỗ Mạnh Đàn và đồng bọn về hành vi đánh bạc, chứa mại dâm xảy ra tại KS Hải Yến. HĐXX nhận định: “Tại phiên tòa, các bị cáo Phương, Mười, Nhàn, Hương, Tiền và bị cáo Việt, Đoan, Trượng khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với vật chứng thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và công bố công khai tại phiên tòa. Riêng bị cáo Đàn không thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố. Thu khai chỉ làm lễ tân, không biết hoạt động mại dâm…”.
HĐXX cũng nhận định: “Trong vụ án này bị cáo Đỗ Mạnh Đàn có vai trò cao nhất, là người chỉ đạo, phân công cho các bị cáo khác thực hiện hành vi chứa mại dâm, đồng thời cũng là người hưởng lợi cao nhất từ việc chứa mại dâm…”. Vì vậy HĐXX Tòa án nhân dân Thành phố Hải Phòng tuyên phạt bị cáo Đỗ Mạnh Đàn 9 năm tù giam về tội “Chứa mại dâm” và 1 năm về tội “Đánh bạc”, tổng hợp hình phạt là 10 năm tù giam, phạt tiền 20 triệu đồng. Các bị cáo Nguyễn Thị Phương, Phan Thị Mười, Trần Thị Nhàn tuyên phạt mỗi bị cáo 7 năm tù giam. Bị cáo Nguyễn Thúy Hương, Phạm Thị Thu tuyên phạt mỗi bị cáo 6 năm tù giam. Bị cáo Đỗ Đức Tiền phạt tù 36 tháng nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 5 năm. Tất cả các bị cáo trên đều bị tuyên án về tội “Chứa mại dâm”. Bị cáo Hoàng Xuân Việt, Bùi Xuân Trượng, Bùi Văn Đoan bị tuyên phát 12 tháng cải tạo không giam giữ, phạt bổ sung mỗi bị cáo 3 triệu đồng về tội “Đánh bạc”.
Bà Phạm Thị Bắc viết đơn kêu oan cho chồng.
Theo luật sư Hoàng Văn Tùng – Văn phòng luật sư Trung Hòa, đoàn luật sư TP. Hà Nội: “Việc HĐXX cho rằng: “Bị cáo Đỗ Mạnh Đàn không thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố, nhưng căn cứ lời khai của các bị cáo và các chứng cứ, tài liệu…”. Trong vụ án này, chứng cứ quan trọng nhất là 02 đầu ghi camera và 10 camera lại không được HĐXX nhắc đến hay làm rõ bởi nó là chứng cứ ghi hình diễn biến trước, trong và sau sự việc, vậy không biết HĐXX dựa vào chứng cứ, tài liệu nào?”. Nếu HĐXX căn cứ vào các quyển sổ ghi chép lượng khách nhờ nhân viên massage lấy phòng có các ký hiệu MX1, MX3, MX4 và cho rằng đó là khách mua dâm là có phần suy diễn, quy chụp.
Thêm vào đó, HĐXX kết tội bị cáo Đàn chỉ căn cứ vào lời khai của các bị cáo mà không đưa ra được thêm bất kỳ bằng chứng nào chứng minh bị cáo Đàn có chứa mại dâm là trái với khoản 2 Điều 72 BLTTHS 2003 quy định: “Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ được coi là chứng cứ khi nó phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án. Không được dùng lời khai nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội”.
Việc HĐXX cho rằng bị cáo Đàn là người hưởng lợi cao nhất từ việc chứa mại dâm cũng là một vấn đề cần được làm rõ, khi HĐXX không đề cập đến con số cụ thể mà bị cáo Đàn được hưởng là bao nhiêu, các bị cáo khác được hưởng bao nhiêu, qua đó mới có thể so sánh được. Cần phải nói thêm, mặc dù là chủ khách sạn, bị cáo Đàn phải đầu tư rất nhiều nhưng chỉ thu được 120.000 đồng tiền vé massage và 100.000 đồng nếu khách thuê phòng. Trong khi đó mỗi lần bán dâm các nhân viên thu của khách 500.000 đồng mà không phải chia cho bất cứ ai và bị cáo Đàn cũng không được hưởng lợi gì ở khoản này, vậy ai mới thực sự là người hưởng lợi cao nhất?”, luật sư Tùng đặt câu hỏi.
Ngoài ra danh sách các đối tượng mua dâm và người làm chứng phần lớn không có địa chỉ thật, khi các luật sư tham gia xác minh phát hiện đa số các đối tượng này đều không có mặt tại địa phương. Thậm chí đối tượng Tùng (người đứng ra trả tiền mua dâm cho cả 5 người) có hoàn cảnh gia đình không lấy gì làm khá giả, địa chỉ theo HKTT của đối tượng này cũng đã bán, còn hàng xóm khi được hỏi về Tùng thì đều nói không biết gì về anh này?. Bà Phạm Thị Bắc – vợ bị cáo Đàn cùng gia đình hy vọng phiên xử phúc thẩm do TAND Tối cao thụ lý và xét xử sẽ xem xét đầy đủ nội dung vụ việc cũng như các chứng cứ liên quan để vụ án được giải quyết một cách công bằng và đúng với quy định của pháp luật.
Nguyễn Nguyên